THỐNG KÊ TRUY CẬP
Số người đang online: 29
Số lượt truy cập: 14163917
QUẢNG CÁO
KĨ THUẬT XÂY DỰNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA MÔN VẬT LÍ 12/18/2018 8:56:28 AM
Sau khi được tập huấn về kỹ thuật xây dựng ma trận đề kiểm tra môn vật lí bản thân tôi đã nắm được các bước cơ bản để xây dụng ma trận đề nhưng sau một thời gian tôi thấy mình đã nhớ không thật chính xác, mỗi lần ra đề lại phải mất công tra cứu ở trên mạng. Nay để phục vụ cho việc ra đề kiểm tra học kì tôi xin trích dẫn lại tài liệu tập huấn của Bộ GD - ĐT để các đồng nghiệp cùng tra cứu. I. Tóm tắt các bước biên soạn một đề kiểm tra

          Bước 1: Xác định mục tiêu đề kiểm tra, các chủ đề cần kiểm tra trong chương trình.

Bước 2: Xác định hình thức đề kiểm tra (kiểm tra 1 tiết hay học kì, dạng đề trắc nghiệm hay tự luận, số lượng câu hỏi), từ đó:

- Lựa chọn trọng số của đề kiểm tra phù hợp với đối tượng HS.

- Lập Bảng trọng số để tính số câu hỏi, số điểm cho các chủ đề.

Bước 3: Thiết lập khung ma trận: Mô tả yêu cầu cần kiểm tra và xây dựng nội dung ma trận.

Bước 4: Sử dụng Thư viện câu hỏi, biên soạn câu hỏi theo ma trận.

Bước 5: Xây dựng hướng dẫn chấm và biểu điểm

Bước 6: Thẩm định, hoàn thiện, bảo quản đề kiểm tra

II.  Những điều cần lưu ý:

1. Trọng số của đề kiểm tra

Một tiết lí thuyết theo PPCT hiện hành, thông thường có 70% thời gian học tập để hình thành kiến thức mới (chuẩn cần đạt là Nhận biết, Thông hiểu) và 30% thời gian dành cho luyện tập, vận dụng củng cố bài học (chuẩn cần đạt là Vận dụng). Các tiết bài tập, ôn tập, thực hành, .... là thời gian dành cho HS vận dụng tìm tòi, mở rộng (chuẩn cần đạt là Vận dụng, Vận dụng cao).

Như vậy trong bài kiểm tra, thời lượng ứng với các mức độ sẽ được tính quy đổi như sau:

- Nhận biết và thông hiểu (BH) chiếm 70% tổng số tiết lí thuyết.

- Vận dụng và vận dụng cao (VD) chiếm 30% tổng số tiết lí thuyết cộng với tổng số tiết luyện tập như bài tập, ôn tập, thực hành v.v...

Hệ số h = 70% = 0,7 trên đây dùng để quy đổi số tiết của từng chủ đề gọi là Hệ số quy đổi của đề kiểm tra. Đối với HS giỏi, HS trường trọng điểm chất lượng cao, thời gian vận dụng nhiều hơn nên có thể lấy hệ số h thấp xuống (từ 0,2 đến 0,5 chẳng hạn). Đối với HS yếu hoặc HS hệ GDTX có thể lấy cao lên (chẳng hạn từ 0,7 đến 1,0). Điều chỉnh giá trị h ta sẽ có các mức độ đề khó hoặc dễ khác nhau, vì vậy h còn được gọi là trọng số của đề kiểm tra.

2. Tính số câu hỏi, điểm số cho các chủ đề

Dựa vào khung PPCT để lập bảng tính số câu và điểm số của đề kiểm tra (còn gọi là Bảng trọng số) sau đây:

 

Bảng trọng số:

Nội dung

Tổng số tiết

TS

tiết lí thuyết

S tiết quy đổi

Số câu

Điểm số

BH (a)

VD (b)

BH

VD

BH

VD

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

Chủ đề 1:

 

 

 

 

 

 

 

 

Chủ đề 2:

 

 

 

 

 

 

 

 

Chủ đề ...

 

 

 

 

 

 

 

 

Tổng

A

 

 

 

 

 

 

 

Cách thực hiện:

- Nhập tên các chủ đề, tổng số tiết, số tiết lí thuyết (các cột 1, 2 và 3).

- Số tiết quy đổi BH ở cột 4 (ứng với mức nhận biết, thông hiểu) được tính bằng cách: lấy TS tiết lí thuyết nhân với hệ số h (với HS trung bình lấy h = 0,7).

- Số tiết quy đổi VD ở cột 5 (ứng với mức vận dụng, vận dụng cao) được tính bằng cách: tổng số tiết trừ đi số tiết quy đổi BH (cột 2 trừ cột 4).

- Số câu hỏi của BH hoặcVD được tính như sau:

Gọi a hoặc b là số tiết BH hoặc VD sau khi quy đổi; A là tổng số tiết toàn ma trận, N là số câu toàn bài thì số câu BH hoặc VD ở cột 6 hoặc 7 được tính theo công thức:

n = [{a (hoặc b)} : A] x N

Kết quả này được làm tròn (số câu là nguyên).

- Điểm số của bài kiểm tra được chia đều cho các câu hỏi. Căn cứ vào số câu hỏi ta xác định được điểm BH và điểm VD (cột 8 và cột 9) của mỗi chủ đề và toàn ma trận.

Chú ý:

- Việc làm tròn trên đây cũng như việc thêm bớt số câu ở các cột của từng chủ đề căn cứ vào tính chất của chủ đề và năng lực thực tế của HS. Chẳng hạn ở những chủ đề ít kiến thức vận dụng và vận dụng cao thì số câu vận dụng có thể làm tròn xuống hoặc giảm xuống và làm tròn lên hoặc tăng lên ở các chủ đề khác, với điều kiện là tổng số câu toàn bài phải đúng như dự kiến ban đầu.

- Cách tính toán như trên không có nghĩa là toàn bộ nội dung câu hỏi lí thuyết được đưa vào mức độ 1, 2; các bài tập và kiến thức vận dụng được đưa vào mức độ độ 3, 4. Tính tỷ lệ các mức độ như trên chỉ là dựa vào cơ sở thời lượng dành cho các mức độ này. Như vậy, những vấn đề lí thuyết khó vẫn có thể đưa vào các mức độ cao và những bài tập dễ vẫn có thể đưa vào mức độ thấp.

Vấn đề khó khăn nhất của người ra đề kiểm tra (GV, tổ chuyên môn, hội đồng ra đề, ...) là xác định trọng số nội dung các kiến thức, kĩ năng trong các chủ đề cần kiểm tra và biên soạn các câu hỏi, bài tập kiểm tra trong đề kiểm tra.

Đối với GV có nhiều kinh nghiệm trước đây, khi ra một đề kiểm tra thì việc đầu tiên là nghĩ đến tương quan giữa nội dung kiểm tra phần hình thành kiến thức mới (Nhận biết, Thông hiểu) và nội dung kiểm tra phần luyện tập, vận dụng (Vận dụng, Vận dụng cao). 

Nguyễn Thị Thanh Bình
TÌM KIẾM


Hỗ trợ trực tuyến
Nguyễn Thị Duyên - P.HT
Nguyễn Thị Duyên - P.HT
Lê Chí Dũng
Lê Chí Dũng
Quản trị mạng
ĐĂNG NHẬP

Tên đăng nhập
Mật khẩu
HÌNH ẢNH
LIÊN KẾT WEBSITE


TRƯỜNG THCS MỸ THỦY - HUYỆN LỆ THỦY - TỈNH QUẢNG BÌNH
Điện thoại: 0232.3882977 * Email: thdaiphong@lethuy.edu.vn
Developed by Phạm Xuân Cường. Tel: 0912.037911 - Mail: cuonggiaoduc@gmail.com